• Tổng số nét:9 nét
  • Bộ:Thảo 艸 (+6 nét)
  • Pinyin: Jīng
  • Âm hán việt: Kinh
  • Nét bút:一丨丨一一ノ丨丨丨
  • Lục thư:Hình thanh
  • Hình thái:⿱艹刑
  • Thương hiệt:TMTN (廿一廿弓)
  • Bảng mã:U+834A
  • Tần suất sử dụng:Cao

Các biến thể (Dị thể) của 荊

  • Giản thể

  • Cách viết khác

    𠛼 𦮓

Ý nghĩa của từ 荊 theo âm hán việt

Đọc nhanh: (Kinh). Bộ Thảo (+6 nét). Tổng 9 nét but (). Ý nghĩa là: 1. cây kinh, 2. cái roi, Cây “kinh”, một loài cây mọc từng bụi, cao bốn năm thước, lá như cái bàn tay, hoa nhỏ, sắc tím hơi vàng, cành gốc cứng dắn, mọc rải rác ở đồng áng làm lấp cả lối đi, Cây roi, “Tử kinh” cũng một loài cây mọc từng bụi, sinh liền cành nhau. Từ ghép với : Người vợ vụng dại của tôi, Nhà tôi, vợ tôi, Cho nên đường đi hiểm trở gọi là “kinh trăn” , “chuyết kinh” người vợ vụng dại của tôi, “kinh thất” nhà tôi (vợ), tiện nội. Chi tiết hơn...

Kinh

Từ điển phổ thông

  • 1. cây kinh
  • 2. cái roi
  • 3. châu Kinh (Trung Quốc)

Từ điển Thiều Chửu

  • Cây kinh, một loài cây mọc từng bụi, cao bốn năm thước, lá như cái bàn tay, hoa nhỏ, sắc tím hơi vàng, cành gốc cứng rắn, mọc rải rác ở đồng áng làm lấp cả lối đi. Cho nên đường đi hiểm trở gọi là kinh trăn , kinh cức , v.v. Sở Thanh Tử gặp Ngũ Cử ở đường, lấy cành cây kinh đàn ra ngồi nói chuyện gọi là ban kinh đạo cố trải cành kinh nói chuyện cũ. Ở nhà quê hay dùng cây kinh để đan phên, vì thế nên cánh cửa phên gọi là sài kinh . Nước Sở có nhiều cây kinh nên gọi là Kinh hay Kinh Sở .
  • Cây roi. Ngày xưa dùng cây kinh để đánh kẻ có tội. Thầy học cũng dùng để đánh học trò, gọi là giạ sở . Liêm Pha mang bó kinh đến nhà ông Lạn Tương Như tạ tội cũng là theo ý đó.
  • Tử kinh cũng một loài cây mọc từng bụi, sinh liền cành nhau. Xưa ba anh em Ðiền Chân lúc ở chung hoà hợp với nhau thì cây kinh trước nhà tươi tốt, lúc chia nhau ra ở riêng thì cây kinh héo úa. Vì thế đời sau mới đem hai chữ tử kinh mà ví với những nhà anh em hoà mục. Thơ Quách Tấn có bài Nhớ em dùng điển tích này: Thiêm thiếp lòng mong đợi, Vùng nghe chim tích linh, Vội vàng xô gối dậy, Ðầy thềm hoa tử kinh (Mộng Ngân Sơn).
  • Vợ Lương Hồng nhà Hán là bà Mạnh Quang lấy cành kinh làm hoa đeo, vì thế đời sau gọi vợ là kinh. Như chuyết kinh ý nói người vợ vụng dại của tôi, kinh thất nhà tôi (vợ), v.v. đều vì tích này.
  • Châu Kinh , nay thuộc vào vùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Quý Châu. Hàn Chiểu Tôn làm quan Trưởng Sử Kinh Châu, Lí Bạch viết thư sang thăm có câu: Sinh bất dụng phong vạn hộ hầu, đãn nguyện nhất thức Hàn Kinh Châu nghĩa là không cần được phong vạn hộ hầu, chỉ mong được biết Hàn Kinh Châu. Vì thế bạn bè mới biết nhau gọi là thức kinh .

Từ điển Trần Văn Chánh

* ③ (văn) (khiêm) Vợ tôi

- Người vợ vụng dại của tôi

- Nhà tôi, vợ tôi

Từ điển trích dẫn

Danh từ
* Cây “kinh”, một loài cây mọc từng bụi, cao bốn năm thước, lá như cái bàn tay, hoa nhỏ, sắc tím hơi vàng, cành gốc cứng dắn, mọc rải rác ở đồng áng làm lấp cả lối đi

- Cho nên đường đi hiểm trở gọi là “kinh trăn”

- “kinh cức” . § “Sở Thanh Tử” gặp bạn là “Ngũ Cử” trên đường, trải cành kinh cùng nhau nói chuyện cũ

- “ban kinh đạo cố” . Ở nhà quê hay dùng cây kinh để đan phên, vì thế nên cánh cửa phên gọi là “sài kinh” . Nước “Sở” có nhiều cây kinh nên gọi là “Kinh” hay “Kinh Sở” .

* Cây roi

- “Bố nhất thì thác kiến, lai nhật tự đương phụ kinh” , (Đệ bát hồi) (Lã) Bố tôi đã nghĩ lầm, ngày mai sẽ tự mang roi đến (chịu tội).

Trích: Thầy học cũng dùng để đánh học trò, gọi là “giạ sở” . “Liêm Pha” mang bó kinh đến nhà ông “Lạn Tương Như” tạ tội cũng là theo ý đó. Tam quốc diễn nghĩa

* “Tử kinh” cũng một loài cây mọc từng bụi, sinh liền cành nhau

- Thiêm thiếp lòng mong đợi, Vùng nghe chim tích linh, Vội vàng xô gối dậy, Đầy thềm hoa tử kinh (Mộng Ngân Sơn).

Trích: Vì thế đời sau mới đem hai chữ “tử kinh” mà ví với những nhà anh em hòa mục. Thơ Quách Tấn có bài "Nhớ em" dùng điển tích này

* Vợ “Lương Hồng” nhà Hán là bà “Mạnh Quang” lấy cành kinh làm hoa đeo, vì thế đời sau gọi vợ là “kinh”

- “chuyết kinh” người vợ vụng dại của tôi

- “kinh thất” nhà tôi (vợ), tiện nội.

* “Kinh Châu” , nay thuộc vào vùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Quý Châu

- Vì thế bạn bè mới biết nhau gọi là “thức kinh” .